Bộ luật Hồng Đức là gì? Nội dung của Bộ luật Hồng Đức? Bộ luật Hồng Đức là bộ luật được đánh giá cao, có vai trò quan trọng trong lịch sử lập pháp của nước ta. Vậy Luật Hồng Đức là gì và nội dung ra sao? Hãy cùng chúng tôi đọc bài viết dưới đây.
Mục lục
Điểm tiến bộ của Quốc triều hình luật

1. Bộ luật Hồng Đức là gì?
Bộ luật Hồng Đức còn được gọi là Quốc triều hình luật và Hình luật thời Lê triều.
Nhiều người lầm tưởng rằng bộ luật này được tạo ra từ thời vua Lê Thánh Tông, nhưng Luật Hồng Đức chỉ là kết quả của thời kỳ hoàng kim của chế độ phong kiến tập trung Việt Nam, được biên soạn qua nhiều đời. dưới triều Lê. Vua Lê Thánh Tông có công tổng hợp, phân chia, sửa đổi, hoàn thiện các bộ luật đã có từ các đời vua trước và xây dựng bộ luật này.
Hồng Đức niên hiệu thứ hai của vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Với sự đóng góp được cho là có vai trò quan trọng nhất của vua Lê Thánh Tông, Quốc triều hình luật thường được dân gian gọi với cái tên Bộ luật Hồng Đức.
2. Ai là người khai sinh ra bộ luật Hồng Đức?
Khác với nhiều văn bản pháp luật có ghi rõ tên tác giả, bộ Quốc triều hình luật này được biên soạn qua nhiều đời vua thời Lê sơ nên không rõ chính xác ai là người khai sinh ra Bộ luật.
Những bộ luật đầu tiên xuất hiện từ thời vua Lê Thái Tổ (1428-1433), ngoài ra có lẽ có sự đóng góp công sức biên soạn của Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên … mà sử sách cho rằng, bộ luật ấy có một phần đóng góp vào việc người hoàn thành Bộ luật này đặc biệt là vua Lê Thánh Tông (vì triều đại của vua này là Hồng Đức) thời Lê sơ.
3. Nội dung Bộ luật Hồng Đức?

Luật Hồng Đức là một bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau: luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân gia đình, luật hành chính, v.v.
Quốc triều hình luật quyển A.341 có 13 chương, được ghi thành 6 quyển (5 quyển 2 chương / quyển và 1 quyển 3 chương), gồm 722 điều. Ngoài ra, trước khi đi vào các chương, điều, Quốc triều hình luật còn có các biểu đồ quy định về các hạng tang, đồ tang, kích cỡ, hình dáng công cụ (roi, trượng, còng, dây sắt,…).
Trong Bộ luật Hồng Đức, các quan hệ dân sự được đề cập nhiều nhất ở các lĩnh vực như quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng, thừa kế đất đai.
Bộ luật hình sự là nội dung quan trọng, chủ đạo, bao trùm toàn bộ nội dung của Bộ luật:
- Vô pháp vô sắc
- Condescend
- Chuộc tội bằng tiền
- Trách nhiệm hình sự
- Miễn, giảm trách nhiệm hình sự
- Khen thưởng người tố giác, trừng trị kẻ trốn tránh
Các nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hôn nhân của pháp luật là: hôn nhân không tự do, đa thê và thiết lập chế độ gia đình phụ hệ. Nó thể hiện phép tắc của Nho giáo, trật tự gia đình – xã hội phong kiến nhưng vẫn có một số điểm tiến bộ.
Mặc dù không tách thành các chương riêng nhưng Tòa án hình sự quốc gia đã thể hiện một số khái niệm của pháp luật tố tụng hiện đại như:
- Thẩm quyền và thủ tục tố tụng của các cấp chính quyền khác nhau
- Các thủ tục tố tụng như kiến nghị- tố cáo, thủ tục hỏi cung, thủ tục xét xử, cách thức xét xử, thủ tục bắt giữ.
4. Tại sao nói Bộ luật Hồng đức là bộ luật đầy đủ và tiến bộ nhất trong thời kỳ phong kiến Việt Nam?
Bộ luật Hồng Đức là bộ luật tiêu biểu và hoàn chỉnh nhất trong lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam. Bộ luật chứa đựng nhiều nội dung tiên tiến và nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp lý hoàn thiện hơn các bộ luật cùng thời, có điểm tiếp cận gần với kỹ thuật pháp luật hiện đại.
Thứ nhất, Bộ luật là hiện thân của tư tưởng tiến bộ triệt để, đi trước thời đại, đặc biệt là tính nhân văn, nhân văn sâu sắc bao trùm các đối tượng “yếu thế” hơn trong xã hội. đó là người già, người tàn tật, trẻ em, phụ nữ có thai, v.v.
Bộ luật đề cập đến nhiều điều liên quan đến địa vị pháp lý của phụ nữ – điều hiếm thấy trong các bộ luật thời phong kiến. Xưa nay, người ta luôn quan niệm rằng phụ nữ phải sống nương tựa vào gia đình chồng con, không được ly hôn “lấy chồng xa, chồng chết thì theo con”.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực hôn nhân, luật pháp bảo vệ các quyền của phụ nữ và trẻ em trong việc thắp hương, cúng tế, thừa kế và sở hữu tài sản. Phụ nữ có những địa vị độc lập nhất định như quyền sở hữu tài sản, quyền xin ly hôn trong một số trường hợp. Ví dụ về ly hôn do lỗi của chồng quy định tại Điều 308:
“Chồng bỏ vợ 5 tháng không thấy động tĩnh gì (người vợ ra trình diện với cán bộ địa phương và cán bộ xã đứng ra làm chứng) rồi mất vợ”.
Ngoài ra, còn có quy định không được ngược đãi vợ (điều 482) và nghĩa vụ chung thủy (điều 401, 405).
Quy định như vậy đã đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ và quan trọng hơn, nó còn trở thành cơ sở để người chồng thực hiện tốt nghĩa vụ đối với vợ và gia đình. Đây là quy định nổi bật thể hiện sự sáng tạo của nhà lập pháp nhằm duy trì ổn định trật tự trong gia đình.
Mặc dù bị giới hạn bởi khái niệm giai cấp hẹp, luật này cũng đưa ra nhiều điều khoản để bảo vệ con người, bao gồm cả việc bảo vệ những người thuộc tầng lớp thấp trong xã hội, chẳng hạn như bảo vệ quyền con người. dân chủ tự do của nhân dân, có nhiều điều khoản quy định những hình phạt cụ thể đối với việc nô dịch nhân dân, đặc biệt ở chỗ không phân biệt địa vị xã hội và bảo vệ danh dự, nhân phẩm. …
Thứ hai, về lĩnh vực quan lại, Bộ luật Hồng Đức đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng quan lại, các bộ luật liên quan đến tướng lĩnh các cấp chiếm hơn 50% tổng số bộ luật về tội phạm. .
Quan điểm “dân là gốc của nước” được thể hiện trong Luật Hồng Đức cho thấy truyền thống này đã được Lê Thánh Tông kế thừa, thể chế hóa để bảo vệ quyền lợi của nhân dân. với những người được giao trọng trách quản lý xã hội mà nhũng nhiễu dân, hành nghề công dân.
Thứ ba, tuy ra đời cách đây hơn 500 năm nhưng Bộ luật Hồng Đức đã quy định hầu hết các tội danh cơ bản theo luật hình sự hiện đại. Hơn nữa, các nhà lập pháp thời đó đã thể hiện bản chất nhân đạo của thời đại như: có những quy định về các tình tiết chuộc tội, tăng nặng, giảm nhẹ …
XEM THÊM TẠI: https://internationalecolodges.com/