Phương hướng xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay là gì?

Xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ là một trong những mục tiêu hàng đầu để củng cố an ninh quốc phòng. Vậy trong giai đoạn hiện nay, việc chỉ đạo xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam được thực hiện như thế nào? Mời các bạn cùng theo dõi nội dung dưới đây để biết thêm thông tin chi tiết.

Hiện nay, Quân đội ta đang được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số ngành, ngành, lực lượng. Đó vừa là sự thống nhất, vừa là sự phát triển quan điểm của Đảng về xây dựng quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Sau đây là một số nội dung chi tiết về phương hướng xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, mời các bạn cùng tham khảo.

Phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay là gì

1. Xây dựng chính trị – tinh thần

Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị – tinh thần là nguyên tắc trong xây dựng quân đội, là cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, thể hiện quan điểm nhân tố là người quyết định thắng thua trên chiến trường. Việc xây dựng chính trị – tinh thần nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, giữ vững bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính quần chúng của quân đội. Sức mạnh chiến đấu về chính trị – tư tưởng của lực lượng vũ trang Việt Nam còn thể hiện ở ý chí phấn đấu vươn lên làm chủ khoa học, công nghệ quân sự hiện đại, thể hiện tinh thần dám đánh, biết thắng.

Việt Nam chủ trương tăng cường công tác giáo dục chính trị để bộ đội phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết đánh giặc bảo vệ Tổ quốc và truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam quyết chiến, quyết thắng. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội phải được giáo dục, rèn luyện để có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi nhiệm vụ được giao, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, nhất là trước những luận điệu phá hoại của kẻ thù và những tác động tiêu cực của xã hội; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với chế độ, thấm nhuần đạo đức cách mạng, gắn bó mật thiết với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, quyết tử vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì lợi ích dân tộc, góp phần gìn giữ hòa bình khu vực và thế giới. Tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị và các tổ chức quần chúng trong toàn quân được xây dựng vững mạnh toàn diện.

Việt Nam phản đối mọi âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân của các thế lực thù địch nhằm tách rời Lực lượng vũ trang nhân dân ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Tổ chức, biên chế và xây dựng nguồn nhân lực

Trong thời bình, Việt Nam chủ trương tiếp tục cắt giảm quân số thường trực, xây dựng lực lượng dự bị động viên phù hợp để đáp ứng yêu cầu khi có tình huống khẩn cấp hoặc chiến tranh. Lực lượng thường trực của quân đội được giữ ở mức hợp lý, tinh gọn, bảo đảm sức mạnh chiến đấu. Giảm đầu mối, chuyển dần một số hoạt động bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức dân sự, cơ cấu lại biên chế lực lượng vũ trang theo hướng ưu tiên cho các đơn vị chiến đấu và quân y. đang thực hiện các nhiệm vụ quan trọng, thì quân nhu, kỹ thuật là định hướng cơ bản về tổ chức, biên chế của lực lượng vũ trang nói chung và toàn quân nói riêng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của đội ngũ cán bộ, Người nói: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”; Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho lực lượng vũ trang nhân dân là công tác then chốt, có ý nghĩa chiến lược. Mục tiêu của giáo dục đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn, kỹ thuật Quân đội nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Cán bộ, sĩ quan kỹ thuật quân đội phải có bản lĩnh chính trị, ý chí chiến đấu cao, có khả năng điều quân, tác chiến trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao. Họ phải là những người được giáo dục, rèn luyện đầy đủ về chính trị, tư tưởng, đạo đức, phong cách, năng lực và trình độ học vấn. Hệ thống học viện, nhà trường của Quân đội có nhiệm vụ đào tạo sĩ quan, cán bộ kỹ thuật khoa học và công nghệ quân sự phải được tổ chức theo hướng chuyên sâu, mở rộng liên kết với nhau, với các ngành. các cơ sở đào tạo của các Bộ, ngành khác nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, tạo nguồn nhân tài dồi dào chuyên đào tạo theo yêu cầu của lực lượng vũ trang. Mặt khác, các học viện, nhà trường quân đội phải chuẩn bị những kiến ​​thức cần thiết về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, kỹ thuật, công nghệ, quản lý … cho cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật để họ dễ dàng hòa nhập với đời sống dân sự. khi họ không còn phục vụ trong quân đội. Nhà nước thực hiện đúng chính sách đào tạo có tác dụng động viên, thu hút nhiều thanh niên ưu tú vào trường đào tạo sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, tạo nguồn bổ sung nhân tài cho lực lượng. lực lượng vũ trang.

3. Đào tạo

Trong thời bình, cùng với xây dựng chính trị – tinh thần, huấn luyện quân sự là việc làm không thể thiếu để nâng cao sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Quân đội nhân dân Việt Nam coi trọng rèn luyện kỹ năng chiến đấu cá nhân, hiệp đồng chiến đấu, binh chủng hợp thành, phát huy tính năng, hiệu quả của vũ khí, trang bị hiện có với nghệ thuật quân sự Việt Nam. đồng thời coi trọng nâng cao kiến ​​thức về công nghệ quân sự hiện đại; đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp huấn luyện cho phù hợp với quy mô tổ chức, trang bị và điều kiện thực tế của từng binh chủng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. .

Cải cách toàn diện công tác đào tạo. Thực hiện tốt phương châm huấn luyện: “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu, sát với yêu cầu, nhiệm vụ và địa bàn hoạt động của từng lực lượng, từng đơn vị; phù hợp với tổ chức biên chế, trang bị và nghệ thuật quân sự của Việt Nam. Trong huấn luyện, cần coi trọng huấn luyện, diễn tập khu vực phòng thủ các cấp; diễn tập tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai; chống khủng bố …, bảo đảm cho các đơn vị xử lý tốt các tình huống, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Để nâng cao chất lượng toàn diện, nâng cao sức mạnh chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, đào tạo, huấn luyện tiếp tục được đổi mới, phù hợp. với điều kiện tác chiến hiện đại. Coi trọng công tác đào tạo trong nước và hội nhập quốc tế. Tập trung vào việc đào tạo và bồi dưỡng các nhà lãnh đạo toàn diện, các tài năng quân sự và các nhân viên kỹ thuật lành nghề. Huấn luyện sát với yêu cầu tác chiến, kết hợp cách đánh mới với cách đánh truyền thống, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước, kết hợp đánh du kích với đánh chính quy …

4. Vũ khí, trang bị kỹ thuật, hậu cần

Vũ khí, trang bị kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong chiến tranh hiện đại. Là một nước đang phát triển, trình độ khoa học công nghệ còn thấp nhưng Nhà nước Việt Nam chú trọng bảo đảm cho quân đội các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật cần thiết để bảo vệ Tổ quốc. Để bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, ngoài việc giữ gìn, bảo quản, cải tiến có chọn lọc vũ khí, trang bị hiện có, Việt Nam đầu tư thích đáng để tự sản xuất một số vũ khí, trang bị. phương tiện, vũ khí phù hợp với khả năng công nghệ, đồng thời mua sắm một số vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, đáp ứng yêu cầu nâng cao sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang nhân dân.

Công nghiệp quốc phòng Việt Nam là một bộ phận cấu thành của nền công nghiệp quốc gia, phát triển theo hướng tự lực tự cường, đồng thời hợp tác với các ngành công nghiệp quốc phòng của các nước bạn để tiếp thu công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ khoa học và công nghệ. Nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ quân sự, sản xuất các phương tiện công nghiệp quốc phòng Việt Nam đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu sửa chữa, cải tiến, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật cho quân nhân. Lực lượng vũ trang và công nghiệp quốc phòng phát triển trên cơ sở liên kết chặt chẽ với các ngành khác, huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế trong một chiến lược thống nhất.

Trang bị hậu cần đóng vai trò quan trọng trong chiến đấu. Công tác phát triển khí tài hậu cần được tiến hành theo hướng nghiên cứu, cải tiến, nâng cao chất lượng các mặt hàng phục vụ bộ đội chiến đấu trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao. Trang thiết bị hậu cần được đầu tư mua sắm, sản xuất, nghiên cứu, chế tạo thỏa đáng, đáp ứng nhu cầu thường xuyên của Quân đội và các tình huống chiến tranh. Công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất trang thiết bị hậu cần được đẩy mạnh, đồng thời tăng cường bảo quản, quản lý, sử dụng hợp lý và phát huy hiệu quả các trang thiết bị hậu cần hiện có.

5. Xây dựng và phát triển khoa học quân sự

Các cuộc khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam đã để lại nhiều kinh nghiệm, bài học đúc kết thành lý luận quân sự đặc sắc của Việt Nam. Những bài học kinh nghiệm đó đã được đúc kết thành hệ thống kiến ​​thức để tìm ra sức mạnh giữ nước. Một trong những cơ sở tạo nên nguồn sức mạnh đó chính là tinh thần cố kết dân tộc của Việt Nam. Tinh thần đó được thể hiện trọn vẹn ở lòng yêu nước, ở tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Khoa học quân sự Việt Nam luôn đề cao bài học to lớn và sâu sắc đó. Nhờ đó, năng lực của toàn dân, toàn dân tộc đã được khai thác và phát huy cao nhất qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

Ngày nay, trong điều kiện và hoàn cảnh mới, khoa học quân sự Việt Nam được bổ sung những lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong thời bình. Khoa học quân sự Việt Nam được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn quân sự Việt Nam, đồng thời tiếp thu những tinh hoa của khoa học quân sự thế giới, vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. nhất là những vấn đề liên quan đến nhân tố mới do tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ trong lĩnh vực quân sự.

Cùng với sự phát triển của khoa học quân sự, ngành Kỹ thuật quân sự cũng đang phát huy truyền thống “chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường” trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin, trong huấn luyện và đào tạo. nhân lực kỹ thuật đáp ứng yêu cầu tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao.

Hệ thống chỉ huy đã đáp ứng được yêu cầu điều quân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong các cuộc kháng chiến vừa qua. Ngày nay, các thành tựu khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã tạo ra một bước tiến nhảy vọt trong sự phát triển của các phương tiện thông tin và truyền thông phục vụ chỉ huy, điều khiển, tình báo và ứng xử. Chiến tranh thông tin. ” Những thách thức lớn của loại hình chiến tranh này đòi hỏi hệ thống chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt Nam phải được hiện đại hóa để có thể đáp ứng yêu cầu của các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tương lai. Hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống thông tin – liên lạc góp phần quan trọng vào việc xây dựng sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.

6. Mở rộng hợp tác quốc tế về quốc phòng

Mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh là định hướng quan trọng trong công tác xây dựng quân đội thời gian tới.

Hợp tác đào tạo, tập huấn, trao đổi kinh nghiệm, học thuật với các nước là lĩnh vực ưu tiên trong công tác đối ngoại quốc phòng của Việt Nam. Việt Nam chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế trong việc đào tạo cán bộ, kỹ thuật viên trình độ cao, nhất là các lĩnh vực đào tạo ngoại ngữ, quân y, khoa học kỹ thuật quân sự. khác. Ngoài việc cử cán bộ đi học tập, đào tạo ở nước ngoài, một số trường quân đội còn mở rộng đào tạo sang các nước. Từ năm 2007, Học viện Quốc phòng Việt Nam đã mở các lớp đào tạo sĩ quan cấp cao nước ngoài. Việc mở rộng quan hệ giữa các học viện, viện nghiên cứu quốc phòng của Việt Nam với các đối tác nước ngoài, cử cán bộ tham dự các hội nghị, hội thảo quốc tế … tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin cởi mở. các vấn đề an ninh khu vực và thế giới được các bên quan tâm, đồng thời mở ra cơ hội hợp tác nâng cao chất lượng nghiên cứu các vấn đề mới trong khoa học và nghệ thuật quân sự.

Việt Nam quan tâm hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng nhằm đáp ứng nhu cầu trang bị, vũ khí của lực lượng vũ trang, nâng cao năng lực công nghiệp quốc phòng trên cơ sở thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế. kinh tế học kiểm soát vũ khí. Công nghiệp quốc phòng Việt Nam ưu tiên hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực nghiên cứu và chuyển giao công nghệ; sản xuất, sửa chữa trang bị, vũ khí quân dụng; đào tạo nguồn nhân lực …

Để bảo đảm quân đội có đủ vũ khí trang bị hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong khi nền công nghiệp quốc phòng trong nước chưa đáp ứng được, Việt Nam tiếp tục mua sắm vũ khí, trang bị. quân sự từ các đối tác thương mại truyền thống, đồng thời quan tâm mở rộng giao thương quốc phòng với các nước, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu bảo đảm kỹ thuật cũng như vũ khí trang bị quân sự cho nước ngoài. lực lượng vũ trang.

XEM THÊM TẠI: https://internationalecolodges.com/

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *